Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi - Triệu chứng và cách phòng chống

Theo thông báo của Cục Thú y, từ đầu năm đến nay, bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) đã phát sinh tại 321 xã của 138 huyện thuộc 38 tỉnh, thành phố. Số lợn mắc bệnh, chết và hủy là 12.565 con. Hiện nay còn 139 ổ dịch tại 139 xã thuộc 48 huyện của 18 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày, nhiều nhất là tại tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hòa Bình.

Tại Quảng Ninh, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, đến nay đã phát sinh 68 hộ của 25 thôn, khu tại 12 xã, phường thuộc 04 huyện, thị là Móng Cái, Đầm Hà, Quảng Yên, Hải Hà. Tổng số lợn chết, hủy là 406 con, trọng lượng 21.097,2 kg. Hiện, dịch bệnh đang có nguy cơ lây lan rộng.

Theo báo cáo của Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật nông nghiệp thành phố Uông Bí và UBND phường Trưng Vương, ngày 8/6/2024 bệnh Dịch tả lợn Châu phi đã phát sinh tại hộ chăn nuôi Nguyễn Dương Miều, khu Đền Công 3, phường Trưng Vương, số lợn mắc bệnh là 05 con. 

Hiện nay trên địa bàn thành phố, một số hộ chăn nuôi chủ quan, lơ là, không thực hiện quy trình nhập, tái đàn lợn, áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn, khai báo chính quyền địa phương. Nguy cơ lây lan và tái phát bệnh Dịch tả lợn Châu Phi trên diện rộng đang trở thành mối lo ngại cho người chăn nuôi và người tiêu dùng. Chính vì vậy, việc hiểu rõ về dịch bệnh này cùng những dấu hiệu của bệnh ở từng cấp độ là vô cùng cần thiết.

Dịch tả lợn Châu Phi là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút gây ra. Bệnh có đặc điểm lây lan nhanh và xảy ra ở cả lợn nhà và lợn hoang dã, gây thiệt hại nghiêm trọng với tỷ lệ chết cao lên đến 100%. Vi rút gây bệnh dịch tả lợn Châu Phi có sức đề kháng cao với môi trường. Lợn khỏi bệnh có khả năng mang vi rút trong thời gian dài, có thể là vật chủ mang trùng suốt đời.

Thời gian ủ bệnh của lợn từ 4-19 ngày, ở thể cấp tính thời gian này chỉ khoảng 3-4 ngày. Vi rút DTLCP lây từ lợn bệnh sang lợn khỏe thông qua tiếp xúc trực tiếp với máu, phân, chất bài tiết của lợn bệnh, ăn thức ăn thừa của con người nhưng chưa được xử lý nhiệt, nấu chín. Ngoài ra, lợn có thể bị nhiễm bệnh khi tiếp xúc với phương tiện, dụng cụ chăn nuôi, bao bì đựng cám, quần áo của người chăn nuôi, nguồn nước có mang vi rút DTLCP. Bệnh DTLCP lây lan nhanh, ở phạm vi rộng, chủ yếu do yếu tố con người trong quá trình bán chạy, giết mổ, vận chuyển lợn hoặc sản phẩm của lợn mắc bệnh DTLCP; người tham gia xử lý ổ dịch DTLCP không thực hiện tốt vệ sinh, tiêu độc khử trùng triệt để đối với mầm bệnh bám ở quần áo, ủng, giày,..

Lợn bị nhiễm DTLCP có thể xuất hiện các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Đối với thể quá cấp tính, do vi rút có độc lực cao gây ra, lợn bị chết nhanh mà không có triệu chứng bệnh. Ở thể cấp tính, lợn sốt cao từ 40,5 - 42°C, bỏ ăn, lười vận động, ủ rũ, thích nằm chỗ có bóng râm hoặc gần nước; có biểu hiện đau vùng bụng, lưng cong, di chuyển bất thường; một số vùng da trắng chuyển sang màu đỏ, đặc biệt là ở vành tai, đuôi, cẳng chân, da phần dưới vùng ngực và bụng, có thể có màu sẫm xanh tím. Trong 1-2 ngày trước khi chết, con vật có triệu chứng thần kinh, di chuyển không vững, nhịp tim nhanh, thở gấp, khó thở hoặc có bọt lẫn máu ở mũi, viêm mắt, nôn mửa, tiêu chảy, đôi khi lẫn máu hoặc có thể táo bón, phân cứng đóng viên có kích thước nhỏ, có chất nhầy và máu. Lợn sẽ chết trong vòng 6 -13 ngày hoặc có thể kéo dài đến 20 ngày. Lợn mang thai có thể sẩy thai ở mọi giai đoạn. Tỷ lệ chết cao lên tới 100%. Thể á cấp tính, do vi rút có độc tính trung bình gây ra, lợn sốt nhẹ hoặc sốt lúc tăng lúc giảm, giảm ăn, sụt cân, ủ rũ, khó thở, ho có đờm, phổi có thể bội nhiễm vi khuẩn kế phát, viêm khớp, vận động khó khăn. Lợn mang thai sẽ sảy thai. Con vật có thể bị chết trong vòng 15-45 ngày, tỷ lệ chết từ 30-70%. Thể mạn tính do vi rút có độc tính trung bình hoặc thấp gây ra, lợn bị giảm cân, sốt, có triệu chứng hô hấp, hoại tử da, hoặc viêm loét da mạn tính, viêm khớp. Triệu chứng bệnh có thể kéo dài từ 2-15 tháng, có tỷ lệ chết thấp.

Thực hiện các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn là biện pháp phòng bệnh DTLCP hiệu quả nhất hiện nay, trong đó người chăn nuôi lợn cần thực hiện các biện pháp như sau:

Đối với chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi lợn, cần kiểm soát chặt chẽ người và động vật ra vào khu vực chăn nuôi. Chuồng nuôi phải dễ thực hiện các biện pháp vệ sinh, sát trùng, tiêu độc, phòng bệnh. Có lưới bao xung quanh chuồng nuôi và biện pháp khác ngăn chặn côn trùng và vật chủ trung gian truyền bệnh như chuột, chim, ruồi, muỗi,...  Tại lối ra vào chuồng nuôi phải bố trí hố khử trùng, thay bảo hộ lao động cho người ra, vào khu vực chăn nuôi. Nên có ô chuồng nuôi cách ly để nuôi lợn mới nhập hoặc lợn bị bệnh, có khu vực thu gom và xử lý chất thải. Nếu có điều kiện thì nuôi theo phương pháp cách ô, mỗi ô chuồng có khoảng trống khoảng 1m để giảm thiểu lợn giữa các ô chuồng tiếp xúc với nhau. Không sử dụng chung dụng cụ chăn nuôi giữa các chuồng. Đường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến khu xử lý chất thải phải đảm bảo kín. Nước thải ô chuồng nào thoát riêng ô chuồng đó ra đường thoát nước chung. 

Đối với lợn giống, lợn được nhập về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khoẻ mạnh. Trước khi nhập đàn, nuôi cách ly ít nhất 2 tuần.  

Về quy trình chăn nuôi, cần áp dụng phương thức quản lý đàn lợn "cùng vào - cùng ra" theo thứ tự ưu tiên: dãy chuồng, ô chuồng; có quy trình chăn nuôi phù hợp với từng loại lợn theo các giai đoạn sinh trưởng, phát triển; sử dụng thức ăn có nguồn gốc rõ ràng, còn hạn sử dụng, đảm bảo chất lượng và an toàn. Trường hợp sử dụng thức ăn tận dụng, phải được xử lý nhiệt trước khi cho ăn; không sử dụng thức ăn thừa trong máng ăn của đàn lợn đã xuất chuồng và thức ăn của đàn lợn đã bị dịch bệnh cho đàn lợn mới. Nguồn nước cho chăn nuôi lợn phải đảm bảo an toàn. Nên bổ sung chế phẩm sinh học trong thức ăn để tăng khả năng tiêu hóa, sức đề kháng cho lợn; sử dụng các chế phẩm sinh học trong nước uống, độn chuồng và định kỳ phun sương trong chuồng nuôi theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Duy trì công tác vệ sinh, tiêu độc và kiểm soát người ngoài ra, vào khu vực chuồng nuôi; hạn chế tối đa người ngoài ra, vào khu vực chuồng nuôi. Trước và sau khi vào, ra khu chăn nuôi phải thay bảo hộ lao động, sát trùng tay, nhúng ủng hoặc giầy, dép vào hố khử trùng. Cần bổ sung hoặc thay hàng ngày thuốc sát trùng tại các hố sát trùng ở cổng ra vào khu chăn nuôi, chuồng nuôi. Định kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tuần; phun thuốc sát trùng trong chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần. Định kỳ phát quang bụi rậm, khơi thông và vệ sinh cống rãnh ngoài chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tháng. Đồng thời, vệ sinh máng ăn, máng uống hàng ngày. Thiết bị, dụng cụ và phương tiện phục vụ trong chăn nuôi phải được tiêu độc khử trùng thường xuyên. Sau mỗi đợt nuôi, phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa lợn mới vào nuôi.  

Cùng  với đó, cần kiểm soát tốt phương tiện vận chuyển, trang thiết bị, dụng cụ chăn nuôi; không để xe máy, xe đạp, xe đẩy, xe thồ,… trong khu chuồng nuôi lợn. Các phương tiện vận chuyển trước và sau khi vào chuồng nuôi phải được vệ sinh, tiêu độc, khử trùng; không để phương tiện vận chuyển của thương lái, phương tiện vận chuyển thức ăn chăn nuôi đến khu vực nuôi lợn, chỉ sử dụng xe nội bộ của khu chuồng nuôi để vận chuyển; nên có phương tiện vận chuyển chuyên dụng. Trường hợp dùng chung thì phải vệ sinh, tiêu độc, khử trùng trước khi sử dụng.  

Chất thải chăn nuôi phải được thu gom về khu vực cuối chuồng nuôi để xử lý hoặc để xa khu chuồng nuôi, xa nơi cấp nước. Chất thải rắn phải được thu gom hàng ngày, chuyển đến nơi tập trung và xử lý bằng nhiệt, hoá chất hoặc bằng phương pháp sinh học. Chất thải lỏng phải được dẫn trực tiếp từ các chuồng nuôi đến khu xử lý bằng đường thoát riêng. Chất thải lỏng phải được xử lý bằng hoá chất hoặc bằng phương pháp sinh học phù hợp.  

Trường hợp hộ chăn nuôi nghi ngờ lợn mắc bệnh DTLCP, cần được báo cáo kịp thời đến chính quyền địa phương để được hướng dẫn xử lý.

Kim Thuỷ

Tin tức khác

Thời tiết

Tỷ giá ngoại tệ
Thống kê truy cập
Đang online 14422 Tổng lượt truy cập 7568795