Nâng cao diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng
Là tỉnh có địa hình bị chia cắt, đất đồi núi có độ dốc lớn, bờ biển kéo dài và thường xuyên chịu tác động tiêu cực của gió bão, Quảng Ninh đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch phát triển và sản xuất công nghiệp gia tăng cũng đã tác động không nhỏ tới ô nhiễm môi trường. Do đó việc duy trì và nâng cao diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đóng vai trò rất quan trọng trong công tác phòng hộ môi trường, bảo tồn các nguồn gen quý và đa dạng sinh học.
Lực lượng kiểm lâm giám sát việc triển khai Dự án trồng rừng hỗn loài cây bản địa tại rừng phòng hộ hồ Yên Lập. Ảnh: Phạm Tăng
Theo kết quả theo dõi diễn biến rừng và đất quy hoạch phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh năm 2021 thì tổng diện tích rừng và đất rừng được quy hoạch để phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng toàn tỉnh là trên 163.000ha (chiếm 37,5% tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh). Trong đó, diện tích đất trống núi đất, đất trống ngập mặn quy hoạch phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ trên địa bàn tỉnh còn rất lớn, lên tới gần 18.000ha (chiếm khoảng 10,9% tổng diện tích đất quy hoạch) để phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng toàn tỉnh. Phần lớn diện tích đất trống này hiện thuộc quản lý của chủ rừng là các BQL rừng phòng hộ, BQL rừng đặc dụng và các công ty lâm nghiệp. Ngoài ra cũng còn một phần diện tích do UBND các xã đồng quản lý nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Để đánh giá lại chi tiết hiện trạng đất đai, xác định những diện tích đất trống núi đất, đất trống ngập mặn có khả năng trồng rừng, xác định được cây trồng phù hợp, từ tháng 10/2021 đến tháng 6/2022, Sở NN&PTNT đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao kỹ thuật lâm sinh (Viện Nghiên cứu lâm sinh) tiến hành thực hiện khảo sát lại toàn bộ diện tích đất trống quy hoạch là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng giai đoạn 2021-2025.
Những cánh rừng xanh trên cung đường lên xã Kỳ Thượng (TP Hạ Long). Ảnh: Hùng Sơn
Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, tổng diện tích đất trống núi đất, đất trống ngập mặn sau rà soát có khả năng trồng rừng dự kiến có thể triển khai trong giai đoạn 2023-2025 là gần 1.860ha, trong đó bao gồm trên 934ha đất trống đã có dự án đầu tư nhưng không thành rừng và gần 921ha đất trống chưa có dự án đầu tư. Loại cây trồng phù hợp là thông mã vĩ, thông caribe, sồi phảng, giổi xanh và lim xanh. Sau khi Sở NN&PTNT trao đổi, làm việc, các chủ rừng đều thống nhất năm 2023 sẽ tiến hành trồng toàn bộ trên 934ha đất trống đã có dự án đầu tư nhưng không thành rừng; năm 2024 sẽ tiến hành trồng khoảng 567ha đất trống đã có dự án đầu tư nhưng không thành rừng; năm 2025 sẽ tiến hành trồng khoảng 367ha còn lại của diện tích đất trống đã có dự án đầu tư nhưng không thành rừng. Tổng nhu cầu kinh phí thực hiện trồng, chăm sóc, bảo vệ diện tích rừng nói trên dự kiến khoảng 258 tỷ đồng.
ThS.Lê Văn Quang, Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao kỹ thuật lâm sinh, cho biết: Để triển khai có hiệu quả đề án trồng rừng trên những diện tích đất trống, nhất là với trên 934ha đất trống đã có dự án đầu tư nhưng không thành rừng thì Sở NN&PTNT và các cơ quan chức năng cần sớm có những giải pháp tháo gỡ để chủ rừng nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ thanh lý. Bởi theo quy định thì diện tích này cần hoàn tất các thủ tục về hồ sơ pháp lý trình cơ quan có thẩm quyền xin thanh lý sau đó mới có thể trồng lại rừng. Đây là một vấn đề rất khó khăn nếu để các chủ rừng tự triển khai, phần diện tích đất trống đưa vào kế hoạch trồng rừng chủ yếu phân bố ở vị trí xa, manh mún, điều kiện lập địa khó khăn, một số diện tích gần khu vực chăn thả gia súc của người dân nên công tác bảo vệ rừng cần được đặc biệt chú trọng. Thực tế cho thấy, rừng phòng hộ trên địa bàn tỉnh có vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng nguồn nước tại các hồ, đập chứa nước, phòng chống thiên tai, bão lũ, hấp thụ các bon, giảm ô nhiễm khói bụi do hoạt động khai thác khoáng sản và các khu công nghiệp. Vì vậy, tỉnh cũng cần nghiên cứu, xây dựng chính sách chi trả các dịch vụ môi trường rừng đối với loại rừng này để chủ rừng có thêm thu nhập. Bởi hiện nay ở các địa phương, nhiều diện tích rừng sau khi nghiệm thu thành rừng thì không có kinh phí quản lý, bảo vệ. Đồng thời, chủ rừng cũng không có thu nhập từ những diện tích này nên chất lượng rừng nhiều nơi xuống cấp.
Tin tức khác
- Đại hội Công đoàn cơ sở phường Phương Đông lần thứ VI, nhiệm kỳ 2023-2028
- Đại hội công đoàn cơ sở phường Vàng Danh khóa VI, nhiệm kỳ 2023-2028
- Đảng bộ phường Trưng Vương: Sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025
- Hội Nông dân Thành phố Uông Bí tham quan thực tế mô hình nông nghiệp, thủy sản tại tỉnh Hải Dương
- Đăng ký nguyện vọng xét tuyển đại học từ ngày 10/7
- Thuê bao dùng CMND có cần chuẩn hóa thông tin?
- TP Uông Bí chủ động phòng, chống dịch bệnh tay chân miệng
- Chương trình cắt tóc tình nguyện và hiến tặng tóc cho người bệnh ung thư
- Chuyên gia chỉ cách nhận diện lừa đảo bằng video và giọng nói của người quen
- Bắt giữ nhóm đối tượng làm giả giấy khám sức khỏe, giấy ra viện
- Loạn thần, điên dại vì ma túy thế hệ mới
- Việt Nam kêu gọi cách tiếp cận toàn diện về quản lý rác thải bền vững