Quảng Ninh thời tiền sử và sơ sử

THỜI TIỀN SỬ

Tiền sử Quảng Ninh được biết sớm nhất là ở các địa điểm thuộc Văn hóa Soi Nhụ. Văn hóa Soi Nhụ là nền văn hóa của người tiền sử.

Khoảng 18.000 năm về trước, thời kỷ băng hà lần cuối cùng phát triển, mực nước biển Đông hạ thấp tới độ sâu 110-120 mét dưới mực nước biển hiện tại. Lúc đó vịnh Bắc Bộ, trong đó có vịnh Hạ Long, là một đồng bằng tam giác châu rộng lớn. Trên vùng đất khoảng vài nghìn km2 của Quảng Ninh và khu vực Vịnh Hạ Long bây giờ là một đồng bằng cổ.

Ở đây đã tồn tại một cộng đồng cư dân tiền sử lớn. Họ sống trong các hang động đá vôi, trên một địa bàn độc lập so với các cư dân Hòa Bình-Bắc Sơn cùng thời đã sáng tạo ra một nền văn hóa song song tồn tại với các văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, đó là nền Văn hóa Soi Nhụ, làm cơ sở để sau đó hình thành các loại hình văn hóa tiến bộ mới tại Cái Bèo, tiếp theo nền Văn hóa Hạ Long nổi tiếng.

Rìu đá của người tiền sử thời Văn hóa Hạ Long trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh.

THỜI SƠ SỬ

Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng ngay từ thời Hùng Vương, Việt Nam đã được chia thành 15 bộ, trong đó có các bộ Ninh Hải, Lục Hải. Địa bàn của bộ Ninh Hải, Lục Hải thời đó không hoàn toàn trùng với địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, ngoài Quảng Ninh thì tối thiểu hai bộ đó còn bao gồm một phần Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và một phần Lưỡng Quảng ngày nay, nhưng khu vực trung tâm của Ninh Hải, Lục Hải chính là khu vực tỉnh Quảng Ninh bây giờ.

Thời Hùng Vương từ năm 2879 trước công nguyên (TCN) - 258 TCN (2.622 năm): vùng Quảng Ninh thuộc bộ Ninh Hải, nước Văn Lang.

Thời nhà Thục từ năm 257 TCN - 208 TCN (50 năm): thuộc bộ Ninh Hải, nước Âu Lạc.

Thời thuộc Triệu từ năm 207 TCN - 111 TCN (97 năm): thuộc bộ Ninh Hải, nước Nam Việt. Vùng Đông Triều thuộc bộ Dương Tuyền (Thanh Tuyền).

Thời Bắc thuộc lần thứ nhất năm 111TCN - 40 (trong đó, thuộc Tây Hán từ  năm 111TCN - 25; thuộc Đông Hán từ năm 25 - 40) (246) năm: thuộc quận Giao Chỉ (gồm huyện An Định và huyện Khúc Dương).

Thời Trưng Vương từ năm 40-43 (4 năm): gồm hai huyện như cũ (huyện An Định và huyện Khúc Dương).

Thời Bắc thuộc lần thứ hai từ năm 43-544 (501 năm): (thuộc Đông Hán năm 43-244; thuộc Ngô năm 244-248; (Đến đây có cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, đất nước độc lập tự chủ từ năm 248 đến năm 264); thuộc Ngô, Ngụy năm 264-265; thuộc Ngô, Tấn năm 265-279; thuộc Tấn năm 280-420; thuộc Lưu Tống năm 420-479; thuộc Tề năm 479-507; thuộc Lương năm 505-543): thời thuộc Ngô, Tấn: vùng Quảng Ninh thuộc quận Giao Chỉ gồm huyện An Định và một phần huyện Khúc Dương (sau đổi thành huyện Hải Bình). Từ thời thuộc Lương, vùng Quảng Ninh thuộc châu Hoàng, quận Ninh Hải.

Thời Tiền Lý (Lý Nam Đế) và nhà Triệu (Triệu Quang Phục) từ năm 544-603 (58 năm): Vùng Quảng Ninh thuộc quận Hải Ninh của nước Vạn Xuân.

Thời Bắc thuộc lần thứ ba từ năm 603-939 (336 năm): (thuộc Tùy năm 603-617; thuộc Đường năm 618-906, trong thời thuộc Đường có thời kỳ nắm quyền của Mai Hắc Đế  (Mai Thúc Loan) năm 772, Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) năm 791, Khúc Thừa Dụ năm 906; thuộc Hậu Lương năm 907-922, thuộc Hậu Đường năm 923-936, thuộc Hậu Tấn năm 937-938). Vùng Quảng Ninh chủ yếu thuộc châu Lục (có thời kỳ thuộc quận Ngọc Sơn) gồm huyện Hoa Thanh, huyện Ninh Hải; phần đất Đông Triều thuộc Châu Giao (huyện Nam Định). (Có sách ghi thời thuộc Tùy, vùng Quảng Ninh thuộc trấn Hải Môn, thời thuộc Đường năm 722 đổi thành trấn Triều Dương).

 

Theo special.nhandan.vn

Thời tiết

Tỷ giá ngoại tệ
Thống kê truy cập
Đang online 1551 Tổng lượt truy cập 91799539